Ngày đăng: 20/12/2024

BỐI CẢNH ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN SỚM ĐÃ THAY ĐỔI NHƯ THẾ NÀO?

BỐI CẢNH ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN SỚM  ĐÃ THAY ĐỔI NHƯ THẾ NÀO.png

BỐI CẢNH ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN SỚM ĐÃ THAY ĐỔI NHƯ THẾ NÀO?

Ung thư phổi (UTP) là một trong những thách thức lớn trong lĩnh vực điều trị ung thư. Theo dữ liệu từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), UTP có tỷ lệ tử vong hàng đầu trong các bệnh ung thư thường gặp ở hai giới, với hơn 1.8 triệu ca tử vong được ghi nhận mỗi năm [1,2]. UTP thường phát hiện ở giai đoạn muộn, khi bệnh tiến triển tại chỗ, tại vùng hoặc đã có di căn xa, điều trị thường khó khăn và có tiên lượng xấu. Nếu bệnh được phát hiện ở giai đoạn sớm khi tổn thương khu trú tại chỗ tại vùng (giai đoạn I, II, IIIA) phẫu thuật triệt căn sẽ có tiên lượng tốt hơn. Tuy nhiên, sau phẫu thuật khoảng 50-60% bệnh nhân tái phát trong vòng 5 năm[3, 4]. Tái phát xảy ra trung bình từ 1-2 năm sau khi phẫu thuật [5,6]. Vì vậy, điều trị bổ trợ sau phẫu thuật là cần thiết nhằm mục đích loại bỏ những tế bào khối u còn sót lại, giảm nguy cơ tái phát bệnh và kéo dài thời sống của bệnh nhân.

1.Hóa trị bổ trợ

Từ năm 2005, hóa chất bổ trợ bằng bộ đôi Platinum thường thực hiện 4 chu kỳ (cisplatin được ưu tiên lựa chọn so với carboplatin) kết hợp thêm một trong các loại hóa chất: vinorelbine, paclitaxel, docetaxel, gemcitabine…  là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho các trường hợp UTP giai đoạn từ IB-IIIA nhằm loại bỏ các tế bào ung thư còn sót lại sau phẫu thuật làm giảm tỷ lệ tái phát và di căn. Điều trị bổ trợ sau phẫu thuật bằng hóa chất cải thiện tỷ lệ sống thêm toàn bộ có thể lên tới hơn 3 năm, khoảng 5,4% đến 8,6% đạt 5 năm, tùy thuộc vào giai đoạn bệnh [7] lợi ích cao hơn ở giai đoạn II, III so với giai đoạn IB [7]. Tuy nhiên, hóa trị cũng có thể gây hại đến tế bào lành khác hoặc có thể gây ra một sốt tác dụng phụ như mệt mỏi, nôn, buồn nôn, ăn kém, hạ bạch cầu, hồng cầu, tiểu cầu, suy gan, suy thận, tê bì tay chân…

2. Xạ trị bổ trợ

Xạ trị bổ trợ UTP là kỹ thuật điều trị giúp loại bỏ các tế bào ung thư còn sót lại sau phẫu thuật bằng việc chiếu tia bức xạ mang năng lượng cao. Chỉ định cho nhóm bệnh nhân UTP sau phẫu thuật có nguy cơ tái phát tại chỗ cao như: diện cắt còn tế bào ung thư, phẫu thuật không vét hết được hạch hoặc có hạch di căn. Tuy nhiên, phương pháp xạ trị bổ trợ có nhiều tác dụng phụ như mệt mỏi, buồn nôn, viêm da, viêm thực quản, viêm phổi do xạ trị…

BỐI CẢNH ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN SỚM  ĐÃ THAY ĐỔI NHƯ THẾ NÀO (2).png

3. Các phương pháp điều trị bổ trợ mới

Những kết quả trong các nghiên cứu gần đây đang mở ra một kỷ nguyên mới trong điều trị bổ trợ ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IB-IIIA được phẫu thuật. Các liệu pháp điều trị bổ trợ toàn thân mới bao gồm: liệu pháp điều trị nhắm trúng đích và liệu pháp miễn dịch.

3.1. Điều trị bổ trợ nhắm trúng đích EGFR

Một số nghiên cứu đã tiến hành trên các thuốc TKIs thế hệ 1, 2 trong điều trị bổ trợ, tuy nhiên hiệu quả còn hạn chế hiện tại chưa phê duyệt chỉ định này trong điều trị bổ trợ.

BỐI CẢNH ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN SỚM  ĐÃ THAY ĐỔI NHƯ THẾ NÀO (3).pngNghiên cứu ADAURA, đánh giá liệu pháp điều trị bổ trợ Osimertinib so với giả dược ở 682 bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn IB – IIIA được phẫu thuật, đột biến EGFR (+) cho kết quả trong các phân tích cập nhật (vào năm 2023) cho thấy:8,9,10 73% bệnh nhân nhóm sử dụng Osimertinib còn sống và không bệnh sau 48 tháng, so 38% ở nhóm sử dụng giả dược. Nguy cơ tái phát bệnh hoặc tử vong ở bệnh nhân nhóm sử dụng osimertinib giảm 73% so với giả dược. Ở nhóm sử dụng osimertinib, thời điểm 50% bệnh nhân tái phát bệnh hoặc tử vong (trung vị DFS) là 65.8 tháng so với 28.1 tháng ở nhóm giả dược.