Nguy cơ gặp tác dụng không mong muốn trên da khi điều trị với thuốc ức chế tyrosine kinase (TKI) và cách xử trí.
Ung thư phổi vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư trên toàn thế giới. Trong đó ung thư phổi không tế bào nhỏ chiếm 85% các trường hợp ung thư phổi. Điều trị đích bằng thuốc ức chế tyrosine kinase (Tyrosine kinase inhibitors - TKIs) của EGFR là điều trị tiêu chuẩn cho người bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ có đột biến gen EGFR. Việc sử dụng những loại thuốc này thường gây một số tác dụng không mong muốn trên da, bao gồm: ban da, viêm niêm mạc miệng, viêm quanh móng. Chăm sóc hỗ trợ, giảm liều và gián đoạn điều trị là những chiến lược để quản lí tác dụng không mong muốn liên quan đến EGFR-TKIs, nhằm duy trì chất lượng cuộc sống tốt trong khi vẫn nhận được tối đa lợi ích từ việc điều trị đích, tránh việc ngừng thuốc sớm.
Ban da:
Nổi ban da hay gặp khi điều trị thuốc ức chế thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR-TKIs), được ghi nhận ở khoảng 54 - 89% người bệnh, biểu hiện dưới dạng mụn trứng cá, bao gồm các nốt sẩn và mụn mủ. Xảy ra do thuốc ức chế trực tiếp lên thụ thể EGFR nằm trên các tế bào biểu bì da. Nổi ban da thường xuất hiện trong vòng 4 tuần đầu tiên sau khi bắt đầu dùng thuốc, tổn thương thường giới hạn ở vùng mặt (đặc biệt là mũi, má, trán, cằm), da đầu, vai và thân trên, ít gặp hơn ở các chi, thường không xuất hiện ở vùng gan bàn tay. Tuy nhiên, khô ngứa da có thể xảy ra ở cánh tay và chân của khoảng 35% người bệnh. Ban da thường phát triển theo từng giai đoạn. Ở tuần đầu tiên, người bệnh bị rối loạn cảm giác, xuất hiện ban đỏ và phù nề. Nổi nốt ban sẩn và mụn mủ ở tuần thứ 2, đây thường là các ban vô trùng, tuy nhiên nhiễm trùng thứ phát (tụ cầu vàng, HSV,…) có thể xảy ra nếu để muộn. Tuần thứ 4, bắt đầu bong vảy và trong tuần 4–6, nếu phát ban được điều trị ổn định, xuất hiện ban đỏ và khô da ở vị trí từng có mụn mủ trước đó. Đối với da nhạy cảm với ánh sáng, phát ban có thể dễ kích hoạt khi gặp ánh sáng mặt trời. Ban da dường như biến mất hoàn toàn khi ngừng TKIs.
Để hạn chế nổi ban da, người bệnh cần lưu ý: làm ẩm da bằng kem dưỡng ẩm không chứa cồn 2 lần mỗi ngày; tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời; sử dụng áo chống nắng, đội mũ và thoa kem chống nắng (chỉ số SPF 30 UVA/UVB) trước khi ra ngoài trời và lặp lại khi tiếp xúc lâu; nên sử dụng xà phòng tắm làm mềm, có pH trung tính, không chứa cồn và không chà sát mạnh lên da.
Nổi ban da được chia thành 4 mức độ. Đa số thường gặp ở mức độ nhẹ (độ 1-2), khi đó người bệnh vẫn tiếp tục duy trì thuốc TKIs và điều trị chủ yếu bằng các thuốc bôi tại chỗ như kem bôi corticoid, kháng histamin, kem kháng sinh, có thể cân nhắc bổ sung thêm thuốc kháng sinh đường uống. Nếu không được xử trí sớm có thể tiến triển nặng thành độ 3-4, vì vậy người bệnh cần thông báo sớm cho bác sĩ điều trị khi có những thay đổi bất thường trên da để được tư vấn và điều trị kịp thời, tránh những biến chứng nặng làm trì hoãn điều trị.
Viêm niêm mạc miệng:
Viêm niêm mạc miệng là tình trạng viêm ở niêm mạc trong khoang miệng. Thường xuất hiện trong 2 tuần đầu điều trị thuốc TKIs, gặp ở 13 - 72% người bệnh ở tất cả các mức độ. Viêm niêm mạc miệng có thể bắt đầu bằng cảm giác ngứa ran trong miệng, người bệnh trở nên nhạy cảm với thức ăn và đồ uống, cuối cùng phát triển thành các vết loét. Các yếu tố nguy cơ làm tăng viêm niêm mạc miệng như: tuổi cao, vệ sinh răng miệng kém, có răng giả… Viêm niêm mạc miệng được phân chia làm 4 mức độ: độ 1-2 thường không có triệu chứng hoặc triệu chứng nhẹ, không ảnh hưởng đến khả năng ăn uống, thường hồi phục bằng các thuốc súc miệng và bôi tại chỗ; độ 3-4 gây đau nhiều ảnh hưởng đến ăn uống, thậm chí đe dọa đến tính mạng.
Để phòng ngừa và giảm viêm niêm mạc miệng, người bệnh nên ăn các thức ăn mềm, hạn chế gia vị cay, nóng, chua, đồng thời tăng cường vệ sinh răng miệng, đánh răng bằng bàn chải lông mềm, sử dụng chỉ tơ nha khoa, nước súc miệng không chứa cồn…
Viêm quanh móng:
Viêm quanh móng là trình trạng viêm hoặc nhiễm trùng tại các nếp gấp quanh các móng tay, móng chân. Tác dụng không mong muốn này thường xảy ra muộn hơn so với nổi ban da, trong khoảng tháng 1 – 6 tháng khi được điều trị TKIs, với tần suất là 4 – 57%.
Để giảm viêm quanh móng, người bệnh cần lưu ý: hạn chế tiếp xúc với chất tẩy rửa, các sản phẩm làm móng độc hại; luôn sử dụng găng tay khi rửa chén hay giặt quần áo; không đi giày, dép chật; cắt móng tay thường xuyên và giũa làm nhẵn cạnh móng; báo ngay với bác sĩ điều trị khi có tình trạng viêm ở mức độ nhẹ vì viêm quanh móng ban đầu là tình trạng vô trùng, nhưng rất dễ bội nhiễm.
Các tác dụng không mong muốn trên da khi điều trị thuốc TKIs là rất thường gặp, có thể gặp ở bất kì người bệnh nào, mặc dù thường ở mức độ nhẹ và cải thiện nếu được điều trị kịp thời. Tuy nhiên, có thể xảy ra các biến chứng nặng làm trì hoãn điều trị, thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng nếu không được phát hiện và xử trí sớm. Vì vậy người bệnh cần theo dõi và liên hệ ngay với bác sĩ khi phát hiện những dấu hiệu bất thường.
Khi bị viêm quanh móng, người bệnh nên sử dụng các dung dịch sát khuẩn như dung dịch Betadin bôi ngày 2-4 lần, chỉ sử dụng thêm kháng sinh nếu viêm quanh móng có mủ.
Tài liệu tham khảo:
- Common Terminology Criteria for Adverse Events (CTCAE - Version 5.0) to Evaluate the Severity of Adverse Events of Anticancer Therapies
- National Comprehensive Cancer Network (2022): NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology with NCCN Evidence Blocks
- Lacouture, M. E., M. L. Maitland, S. Segaert, et al. 2010. "A proposed EGFR inhibitor dermatologic adverse event-specific grading scale from the MASCC skin toxicity study group." Support Care Cancer 18(4):509-522